Tai biến mạch máu não vẫn luôn là vấn đề lớn của ngành Thần
kinh học Việt Nam do số lượng tử vong do bệnh này luôn ở mức cao. Hãy cùng tìm
hiểu cũng "khoedeptn.com" về bệnh tai biến mạch máu não để cùng phòng và tránh.
1. Tai biến mạch não là gì?
Mỗi năm, nước ta có khoảng 200.000 người bị tai biến mạch
não, trong đó khoảng 1000 người chết. Số người bị di chứng mù, liệt, tàn phế là
rất cao, với những hệ lụy cho bản thân, gia đình và xã hội trong sinh sống,
chăm nom, chữa trị. Tổ chức y tế thế giới xếp tai biến mạch não ở vị trí thứ
hai trong các bệnh gây tử vong cao hiện nay.
Tai biến mạch não hay đột quỵ (stroke) là bệnh lý có các
biểu hiện: Rối loạn về chức năng thần kinh như hôn mê, liệt nữa người, nói đớ,
nuốt bị sặc… xuất hiện nhanh, đột ngột. Các rối loạn chức năng này thường tồn tại
quá 24 giờ.
Thuật ngữ tai biến mạch máu não theo chuyên môn dùng chỉ
các bệnh mạch máu não như thiếu máu não (Ischemia) do vữa xơ chít hẹp tắc nghẽn
các động mạch não; chảy máu não (hemorrhagia) do các động mạch đó và các cục
huyết khối nghẽn tắc tại gây vỡ mạch tạo ra. Ở vùng não bị thiếu máu, chảy máu
tế bào thần kinh bị thương tổn thương hủy hoại, còn gọi là nhũn não. Hậu quả là
các giác quan, các vùng cơ thể do vùng não bị thiếu máu, chảy máu chi phối cũng
bị tổn thương hủy hoại tạo ra các triệu chứng bệnh lý như tê liệt nửa người,
mù, điếc, nói ngọng, mất nói, vệ sinh không tự chủ,v.v…
Diễn biến của tai biến mạch máu não:
1. Có thể khỏi hoàn toàn trước 24 giờ: gọi là thiếu máu não cục bộ thoáng qua. Hiện
nay coi là yếu tố nguy hiểm, không phải là tai biến mạch máu não thực sự.
2. Khỏi hoàn toàn sau 24 giờ bị liệt gọi là thiếu máu não có hồi phục.
3. Khỏi một phần và di chứng kéo dài.
4. Không hồi phục hoặc nặng lên liên tục.
5. Tử vong.
2. Khỏi hoàn toàn sau 24 giờ bị liệt gọi là thiếu máu não có hồi phục.
3. Khỏi một phần và di chứng kéo dài.
4. Không hồi phục hoặc nặng lên liên tục.
5. Tử vong.
Phục hồi chức năng cho người bệnh tai biến mạch máu não:
Mục tiêu: chống teo cơ và cứng khớp giúp tăng phần nào sức
cơ.
- Trong trường hợp liệt nặng hoàn toàn nên tập thụ động tại
giuờng. Tập tất cả các khớp từ khớp ở ngón tay, ngón chân đến các khớp lớn như
khớp vai, khớp háng. Tập mỗi lần 15 – 30 phút ngày 2-3 lần.
- Trong trường hợp liệt bán phần người bệnh còn cử động
được nhưng khó khăn thì cần tập trợ giúp nghĩa là cho người bệnh tập bình thường
khi thấy động tác nào khó khăn thì giúp cho người bệnh cử động hết tầm hoạt động
của khớp.
- Còn nếu liệt nhẹ người bệnh còn tự sinh hoạt được có thể
tự tập luyện theo hướng dẫn của kỹ thuật viên vật lý trị liệu.
2. Các triệu chứng thường thấy khi gặp tai biến
Tai biến mạch máu não có biểu hiện gì:
- Rối loạn về tri giác: có nhiều trường hợp người bệnh vẫn
còn tỉnh táo, nhưng đa số là có tri giác giảm sút như: lơ mơ, ngủ gà đôi khi là
hôn mê.
- Rối loạn về vận động như: liệt nữa người, liệt mặt cùng
bên với bên bị liệt, liệt các cơ hầu họng làm cho người bệnh nuốt khó khăn khi
ăn uống dễ bị sặc. Ngoài ra người bệnh có thể bị tình trạng nói khó, hay không
nói được, tiêu tiểu cũng có thể không điều khiển được.
Nghẽn tắc mạch do xơ vữa động mạch
Là căn nguyên thông thường nhất của đột quỵ (stroke) thường có các triệu chứng: nhìn mờ, mất thị giác tạm thời một mắt, nói khó nói lắp, tê bại, ỉa đái không tự chủ, được quy thành 4 hội chứng sau:
- Tê bại (nhẹ) hoặc liệt nửa người 66%
- Rối loạn ngôn ngữ (nói khó nói lắp), tay chân lóng ngóng 20%
- Chỉ có các rối loạn cảm giác: tê, bỏng…10%
- Hội chứng thất điều nửa người (tay chân một bên rối loạn hiệp điều khi vận động đi lại, cầm nắm) 4%
Chảy máu não (Hemorrhagia)
Đau đầu và đau sau hố mắt dữ dội, cứng gáy, buồn nôn, co hoặc giãn đồng tử, liệt nửa người và nhanh chóng đi vào hôn mê. Bằng cách thăm khám hệ thống về thần kinh, các thày thuốc lâm sàng chuyên khoa sẽ xác định được vị trí nơi chảy máu.
3. Nguyên nhân dẫn đến tai biến
Tai biến mạch máu não (TBMMN) là bệnh lý của lứa tuổi
trung niên và người cao tuổi. Những người trên 55 tuổi sẽ có nguy cơ TBMMN, tuổi
càng cao thì tỷ lệ TBMMN càng cao, ở nam giới sẽ dễ bị hơn ở nữ giới. Những người
có các yếu tố nguy cơ bị TBMMN nhiều hơn là:
- Người bị huyết áp cao
- Người có các bệnh tim mạch như hẹp van 2 lá, rung nhĩ
- Người bị đái tháo đường
- Người béo phì tăng cân, rối loạn chuyển hóa, tăng mỡ máu
- Nghiện hút (cả thuốc lá, bia rượu)
- Phụ nữ vừa hút thuốc lại dùng thuốc tránh thai
- Làm việc dưới áp lực cao vê tinh thần thể lực, có các sang chấn về tinh thần kinh lớn.
- Người bị huyết áp cao
- Người có các bệnh tim mạch như hẹp van 2 lá, rung nhĩ
- Người bị đái tháo đường
- Người béo phì tăng cân, rối loạn chuyển hóa, tăng mỡ máu
- Nghiện hút (cả thuốc lá, bia rượu)
- Phụ nữ vừa hút thuốc lại dùng thuốc tránh thai
- Làm việc dưới áp lực cao vê tinh thần thể lực, có các sang chấn về tinh thần kinh lớn.
4. Các giải pháp cho TBMMN
Như đối với các bệnh thường gặp theo lứa tuổi và các yếu tố nguy cơ chưa bị bệnh béo phì thì chủ động dự phòng, nếu có bệnh phải được chẩn đoán điều trị nhanh chóng kịp thời. Các chuyên gia về bệnh học thần kinh đã đề xuất các giải pháp rất cụ thể có hiệu quả đối với TBMMN.
Phòng ngừa tai biến mạch máu não bằng cách:
- Điều trị tốt bệnh tăng huyết áp.
- Điều trị tốt bệnh đái tháo đường vì đây là yếu tố nguy cơ chủ yếu của mảng xơ mỡ động mạch lớn và gây thiếu máu lên não.
- Điều trị tình trạng rối loạn mỡ trong máu.
- Dùng thuốc chống đông trong trường hợp bị rung nhĩ.
- Điều trị và dùng thuốc chống đông trong trường hợp đa hồng cầu.
- Ngừng hút thuốc lá.
- Không uống quá nhiều rượu.
- Tập thể dục chơi thể thao thường xuyên, điều chỉnh tập quán sinh hoạt làm việc nghỉ ngơi phù hợp.
- Chống béo phì tăng cân.
Điều trị dự phòng:
Sử dụng các thuốc bảo vệ và dinh dưỡng toàn hệ thần kinh
mạch máu:
- Các thuốc bổ sung cơ chất (làm tăng tính đàn hồi thành
mạch và lưu thông máu) như các chế phẩm ngân hạnh, bạch quả, đậu tương là
tânkan, natopes, cerebrolysin…
- Các thuốc tác động qua cơ chế tuần hoàn (mà y học dân tộc
gọi là bổ huyết, hoạt huyết, thông mạch, tán ứ) như sibelium, caviton,
stugeron…
- Các thuốc chống đông máu, chống kết dính tiểu cầu và tiểu
sợi huyết như aspirin, clopidogrel. Trong nhóm thuốc này hiện có Panax
notoginseng saponin dạng bột pha tiêm và viên nang được tách chiết từ nhân sâm.
- Các thuốc điều hòa lưu thông máu (Haemorrheologicals)
như pentoxifylline, naftidrofuryl oxalate, viên bổ khí huyết, viên tỏi nghệ trà
dogarlic đã được giới thiệu trong cẩm nang sử dụng thuốc MIMS lưu hành trong những
năm gần đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét